Đại hội XIII của Đảng được coi là cột mốc mở đầu đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới với khí thế mới, sức bật mới theo lộ trình “cất cánh” rõ ràng. Khát vọng thịnh vượng đã được khơi dậy, truyền cảm hứng, như lời hiệu triệu với non sông, với đất nước, với hàng triệu người dân Việt Nam mà ở đó mục tiêu rõ nhất là muôn dân được hạnh phúc.




 Đại hội XIII của Đảng tại Hà Nội năm 2021
1. Về khơi dậy khát vọng

Đại hội lần thứ XIII của Đảng là sự kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử đặc biệt, là dấu mốc trong quá trình phát triển của Đảng, của dân tộc và của đất nước Việt Nam. Tại Đại hội lần thứ XIII có hai điểm nhấn phản ánh nhận thức mới của Đảng về sức mạnh nội sinh và phương thức phát triển đất nước trong bối cảnh mới đó là: khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và đổi mới sáng tạo. Lần đầu tiên trong chủ đề của Đại hội và trong các dự thảo báo cáo chính trị đề cập đến "khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc". Đây là một điểm mới, đồng thời là điểm nhấn quan trọng. Để đi tới đích đặt ra trước tiên phải có khát vọng. Nói đến khát vọng là nói đến yếu tố tinh thần, là sự mong muốn, khao khát, quyết tâm dồn nguồn lực vật chất và tinh thần để đạt cho được mục tiêu; là nguồn động lực có sức mạnh lớn lao để thực hiện những nhiệm vụ nặng nề nhằm đạt được ước mơ, không khuất phục trước mọi thử thách… là động lực để mọi tầng lớp nhân dân đem hết sức mình thực hiện, mà cụ thể là ở thời điểm này, khát vọng của dân tộc Việt Nam là đưa đất nước đi tới phồn vinh, hùng cường, thịnh vượng, sánh vai với các nước trong khu vực và thế giới. Trong lịch sử thế giới có nhiều quốc gia phát triển hùng mạnh và sự phát triển của mỗi quốc gia ấy đều bắt nguồn chính từ những khát vọng của dân tộc đó là vươn lên trở thành một dân tộc hùng cường, một nước phát triển, điển hình như các nước Nhật Bản, Hàn Quốc… Một trong những điểm mới nữa là trong Đại hội lần thứ XIII của Đảng, khi đặt ra mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025 và 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Đảng bắt đầu tính đường dài với một lộ trình cụ thể. Tầm nhìn này chỉ ra định hướng và cũng vạch ra một mốc quan trọng để phấn đấu. Nhằm tới đích năm 2045, đất nước ta phát huy được khát vọng phát triển, thể hiện trách nhiệm của Đảng, của toàn thể nhân dân. Tất cả tham gia một cách tích cực nhất, đóng góp sức lực, trí tuệ và tài năng của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nhằm đạt được mục đích tốt đẹp mà Đảng đã đề ra là đến năm 2045, thời khắc Việt Nam kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, Việt Nam trở thành một nước có trình độ phát triển cao, nhân dân được “Hạnh phúc”.

Văn kiện Đại hội Đảng lần này đề cập nhiều đến một thời kỳ phát triển mới, đó là thời kỳ vượt qua những khó khăn, thử thách, Việt Nam đã tích lũy đủ nền tảng, nguồn lực và tiềm lực để bước vào giai đoạn “cất cánh”. Việt Nam không còn ở thời kỳ phát triển bình thường mà là phát triển đột phá để “đi tắt, đón đầu”. Đấy là những “từ khóa” trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII. Vậy người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế đều kỳ vọng cho Việt Nam phát triển theo mục tiêu tốt đẹp, cao cả và nhân văn đó. 

Trên hết, trong suốt tiến trình hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn có khát vọng được sống độc lập, có chủ quyền và tự do, dân chủ, hùng cường. Thế nhưng, thực tế dân tộc Việt Nam luôn phải đương đầu với các cuộc chiến bảo vệ độc lập, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và các giá trị cao quý đó. Trải qua thời kỳ lịch sử tương đối dài, tính từ năm 1945 đến nay, trong 75 năm ấy, tức là ba phần tư thế kỷ, Việt Nam vẫn không nguôi khát vọng là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng, khát vọng hòa bình, khát vọng vượt ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu và khát vọng cháy bỏng muốn phát triển đất nước phồn vinh hơn, “sánh vai với các cường quốc năm châu” với một vị thế cao hơn để xứng với truyền thống kiên cường của dân tộc. Điều đó được đúc kết bằng lời dạy của lãnh tụ Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và kết tinh trong quốc hiệu của đất nước “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”.


 
Như vậy, ở mọi thời kỳ lịch sử, khát vọng ngàn đời của dân tộc ta là độc lập, tự do. Trong giai đoạn gần đây, hết thực dân Pháp lại đến đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược đất nước ta. Cả nước đã hi sinh hàng triệu người, lượng bom đạn đổ xuống đất nước với diện tích chỉ hơn ba mươi vạn cây số vuông mà bằng mấy lần chiến tranh thế giới cộng lại. Khát vọng của chúng ta khi đó luôn là khát vọng hòa bình, được sống trong tự do và thống nhất non sông. Chúng ta cũng đã phải mất hơn 1/4 thế kỷ năm mới thực hiện được khát vọng này. Gần một thế kỷ có được chính quyền độc lập, mất 30 năm nữa mới thống nhất được đất nước, mới được sống trong hòa bình thực sự. Thế nhưng ngay lập tức, đất nước lại gặp sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch; bị bao vây cấm vận, thù trong giặc ngoài khiến cho kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái. Đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội trong cả chục năm. Nhân dân rơi vào cảnh đói khổ, li tán, tha hương. Khát vọng trong thời kỳ này một cuộc sống ấm no và một xã hội yên bình. Năm 1986 đến những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, từ một nước khủng hoảng, trì trệ, lưu thông phân phối ách tắc, rối ren, hàng hóa, vật phẩm tiêu dùng khan hiếm, đắt đỏ đời sống người dân muôn vàn khó khăn, Việt Nam đã thực hiện được khát vọng đưa đất nước thành một nước năng động, phát triển, chuyển đổi thành công sang mô hình và cơ chế quản lý kinh tế mới, có mức tăng trưởng kinh tế cao, liên tục trong nhiều năm, vị thế, uy tín, quan hệ quốc tế ngày càng rộng mở và phát triển, được đánh giá là quốc gia có môi trường chính trị ổn định, an ninh và an toàn xã hội, là người bạn tin cậy cho các quốc gia trên khắp năm châu và các nhà đầu tư quốc tế. Do vậy, từ quốc gia kém phát triển, Việt Nam đã từng bước vững mạnh, chế độ ổn định, nhân dân một lòng tin yêu vào sự lãnh đạo Đảng, của Nhà nước và vào chế độ, đồng thời khẳng định uy thế, vai trò, vị thế của mình trên trường quốc tế. Từ một nước nghèo và lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành hình mẫu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Với những thành tựu thần kỳ của mình trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội và nhất là việc thành công trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, Việt Nam đang trở thành “miền đất hứa” mà nhiều người nước ngoài mơ ước được sinh sống.

Việt Nam đã vượt qua thời kỳ chiến tranh liên miên, thời kỳ đói khổ, thời kỳ bất ổn xã hội… Giờ đây, khát vọng đặt ra từ Đại hội XIII của Đảng là dân tộc Việt Nam phải bứt phá vươn lên, cất cánh, hóa rồng. Đảng đã đặt mục tiêu đến năm 2045, chúng ta phải là một đất nước phát triển, về kinh tế, bình quân đầu người đạt 15 nghìn USD trở lên, cùng với đó là sự ổn định về chính trị, sự phát triển về các mặt văn hóa và xã hội. Chưa dừng lại ở đó, ước nguyện của chúng ta là xây dựng, phát triển quốc gia thịnh vượng, nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, sánh vai ngang hàng với các cường quốc trên thế giới. Muốn đạt được điều đó, Việt Nam phải có vị thế quốc tế. Mà vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế đã được khẳng định, thể hiện rõ nhất là chúng ta được bầu vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc với số phiếu gần như tuyệt đối. Chủ tịch luân phiên ASEAN và một loạt các vị trí trên các diễn đàn đa phương. Như vậy, tiếng nói của Việt Nam không còn là tiếng nói nhỏ bé mà đã tham gia trực tiếp giải quyết các vấn đề mang tầm vóc thế giới. Việt Nam đã hội đủ thế và lực. Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như vậy. Cơ đồ của chúng ta chưa bao giờ nắm chắc trong tay như vậy. 

2. Về nguồn lực con người 

Để khơi dậy được mọi nguồn lực, vận dụng được tất cả những gì người Việt Nam có thành lợi thế cạnh tranh quốc tế là điểu cốt yếu. Nhìn từ từ góc độ con người với tư cách là tài nguyên quý giá nhất và vô tận. Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại trong phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia trên thế giới, trong mọi thời kỳ lịch sử, trong đó có Việt Nam. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII của Đảng là lời hiệu triệu toàn Đảng, toàn dân phát huy cao độ tiềm lực trong thời điểm mang tính bước ngoặt của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Đồng thời nhấn mạnh đến việc đã đến lúc phải phát huy cao hơn nữa tiềm năng con người, giá trị vô giá mà chúng ta đang có. Như Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu từng nhận định rằng, Việt Nam là quốc gia đứng hàng đầu Đông Nam Á về yếu tố nguồn lực con người. Ông coi đây là nguồn tài nguyên dồi dào của Việt Nam. Người Việt Nam ở trong nước cũng như ở khắp nơi trên thế giới đã chứng tỏ sự thông minh, tài giỏi, nhanh nhẹn, uyển chuyển, linh hoạt, giỏi thích ứng của mình thông qua những thành tích họ đạt được cống hiến cho thế giới trên rất nhiều lĩnh vực mà đã đến lúc chúng ta phải phát huy tối đa nguồn lực đáng giá này.


 
Muốn phát huy nguồn lực con người thì phải đề cao hơn nữa vai trò trung tâm của con người trong mọi quyết sách quan trọng của đất nước. Trước tiên cần khơi dậy khát vọng để mỗi người Việt Nam có ý thức và trách nhiệm phát huy cao nhất khả năng của mình đóng góp cho sự phát triển của đất nước, của dân tộc. Trong chặng đường đã qua, từ khi thành lập Đảng Cộng sản năm 1930 cho đến nay, đã hơn 90 năm, sắp tới là 100 năm thành lập, đất nước Việt Nam đã gặt hái những chiến công vô cùng vĩ đại. Từ một đất nước nô lệ, lầm than, Đảng đã lãnh đạo cách mạng đem lại cho dân tộc một đất nước tự do, độc lập, phát triển có vị thế đáng tự hào trên trường quốc tế. Tuy nhiên, trên con đường đi lên cùng dân tộc và đất nước, không phải không có lúc Đảng mắc sai lầm, khuyết điểm. Thế nhưng với tinh thần tự phê bình và phê bình, Đảng đã nhận ra để rồi kiên quyết sửa chữa và điều quan trọng là Đảng luôn luôn có được niềm tin của người dân đối với mình, đó chính là cội nguồn sức mạnh của Đảng. Để mất lòng tin của dân có thể mất Đảng. Đảng đã luôn thể hiện là một tổ chức chính trị vì dân khi giữ được lòng tin, bằng mọi chiến công hiển hách đem lại cuộc sống tự do và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Như vậy thì những sai phạm của những cá nhân trong Đảng, thậm chí những sai lầm về mặt chính sách luôn được căn chỉnh, sửa chữa; mỗi lần như vậy thì uy tín của Đảng càng lên. Đến khi chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới vào năm 1986, sau 35 năm, niềm tin của người dân với Đảng lại tăng cao và có thể khẳng định, thành quả lớn nhất của Đảng hiện nay chính là niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Như vậy, một việc rất quan trọng đó là sau Đại hội phải nâng cao hơn nữa lòng tin của dân với Đảng để Đảng “dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” thực hiện khát vọng đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Thực tế một số cán bộ, thậm chí là cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước bị xử lý kỷ luật dẫn đến tổn thất về uy tín của Đảng, có người dân thậm chí có lúc còn bi quan Đảng có còn đại diện cho họ nữa hay không, rồi hiện tượng một số cán bộ đảng viên làm quan để tham nhũng…, nhưng chính quyết tâm chống tham nhũng với khẩu hiệu “đốt lò” của người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước nhằm làm trong sạch tổ chức mình thì niềm tin nơi nhân dân đặt vào Đảng lại càng tăng lên.

Khi ý Đảng hòa với lòng dân thì mọi khó khăn, thử thách trong quá trình phát triển đất nước hùng cường, hạnh phúc sẽ dễ dàng vượt qua và đạt được. Tuy nhiên, điều quan trọng nữa là Đảng phải làm cho sức dân được mạnh lên, trở nên cường tráng về sức lực, đặc biệt là trí tuệ trong thời đại nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạnh công nghệ 4.0 mà theo đó, tri thức khoa học và công nghệ đã trở thành yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, giáo dục – đào tạo và khoa học công nghệ cùng được Đảng ta coi đó là quốc sách hàng đầu, quyết tâm cùng Nhà nước đầu tư cho phát triển. Khi sức dân đã mạnh thì việc khơi dậy nguồn lực vô biên đó thông qua sức hút của niềm tin với Đảng của nhân dân sẽ dẫn đến kết quả là sự phồn vinh, hạnh phúc của đất nước và nhân dân.

Trong sự phát triển của nguồn lực nhân dân Việt Nam có vai trò không nhỏ của Học viện Nông nghiệp Việt Nam, một cơ sở đào tạo và khoa học, công nghệ hàng đầu của đất nước trong lĩnh vực nông nghiệp, đã, đang và sẽ đào tạo nguồn lực chất lượng cao đóng góp vào sức mạnh của nhân dân làm giầu mạnh cho nông thôn Việt Nam đổi mới, cho người nông dân và toàn thể nhân dân. Nhưng chính đội ngũ các nhà giáo, nhà khoa học của Học viện Nông nghiệp Việt Nam và toàn thể người học của Học viện cũng đang có tư cách là một bộ phận nguồn lực nhân dân cần tự mình làm mạnh chính mình về thể chất và trí tuệ, tự mình xác định trách nhiệm và vị trí của mình trong công cuộc phát triển của đất nước, tự mình khơi dậy khát vọng trong chính bản thân, tự mình giữ được niềm tin yêu trọn vẹn với Đảng để cùng với nguồn lực toàn dân đóng góp cho sự phát triển phồn vinh, hạnh phúc của đất nước. Năm 2022 đã bắt đầu, một năm bản lề cho mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người học của Học viện Nông nghiệp Việt Nam cùng với hơn trăm triệu người Việt Nam đang sinh sống, học tập và lao động trên dải đất hình chữ S và trên toàn thế giới cùng Đảng, Nhà nước khơi dậy khát vọng đưa đất đước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.